BỘ TRANH SÁM HỐI HỒNG DANH 89 VỊ PHẬT
- Chất liệu giấy: Giấy xuyến chỉ, giấy trắng cổ, canvas
- Chất liệu khung: Không khung, bồi biểu lụa, khung composite giả vân gỗ
- Kích thước: 21x30cm, 30x42cm
- Đóng gói: 89 tranh
- Mực in chuyên dụng bền màu, không phai
- Không loang khi gặp nước
- Thích hợp treo tường tại gia, phòng khách, phòng thờ, dùng để hộ niệm, làm quà tặng,…
LƯỢC GIẢI THÍCH TÊN CỦA 89 ĐỨC PHẬT TRONG HỒNG DANH BẢO SÁM
1. Nam mô Phổ Quang Phật (Samanta-prabha Buddha)
Nam Mô (Namo) là Quy mệnh xưng lễ
Phật (Buddha) là một trong mười Hiệu
Phổ Quang (Samanta-prabha) là tên riêng của Đức Phật, đều có xưng, cho nên phần sau đều dựa theo điều này.
Nói Phổ Quang: Ấy là Hóa Thân trăm ức, ánh sáng chiếu soi Đại Thiên
2. Nam mô Phổ Minh Phật (Samanta-prabhāsa Buddha)
Phổ Minh (Samantābhāsa): ấy là tướng tốt đẹp của Báo Thân tướng tốt đẹp phóng vô biên ánh sáng, sáng tỏ như mặt trời sáng rực.
3. Nam mô Phổ Tịnh Phật (Samanta-śuddha Buddha)
Phổ Tịnh (Samanta-śuddha): Ấy là một Chân Pháp Thân giống như hư không, xưa nay trong sạch.
4. Nam mô Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Phật (Tāmala-patra-candanagandha Buddha)
Đa Ma La Bạt (Tāmala-patra) là lìa dơ (ly cấu), tên gọi của núi Ngưu Đầu
Chiên Đàn (Candana) là ban cho thuốc
Hương (Gandha) hay trừ nhóm bệnh phong nhiệt, dùng ví dụ cho hương thơm màu nhiệm thuộc mọi Đức của Như Lai, xông ướp khắp tất cả. Chúng sinh biết được sẽ lìa dơ bẩn được trong sạch, cho nên gọi là Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương (Tāmala-patra-candana-gandha).
5. Nam mô Chiên Đàn Quang Phật (Candana-prabha Buddha)
Chiên Đàn Quang (Candana-prabha). Kinh Lăng Nghiêm nói là “Tự được Tâm khai mở như người nhiễm dính hương, nên thân có mùi thơm”. Do con mắt Tâm được mở sáng, nên gọi là Chiên Đàn Quang.
6. Nam mô Ma Ni Tràng Phật (Maṇi-paṭāka Buddha: Ma Ni Phan)
Ma Ni Tràng (Maṇi-paṭāka). Tràng (Paṭāka: cây phan, cây phướng) là dáng mạo cao hiển của Công Đức, ấy là Như Lai lợi sinh. Nơi nơi nhìn thấy cây phướng Pháp to lớn, như viên ngọc Ma Ni tùy theo phương hiện màu sắc, tồi phục quân Ma, phá các hắc ám. Phàm người nhìn thấy, không có ai chẳng quy kính, cho nên gọi là Ma Ni Tràng.
7. Nam mô Hoan Hỷ Tạng Ma Ni Bảo Tích Phật (Pramudita-garbha-maṇiratna-kuṭa Buddha)
Hoan Hỷ Tạng Ma Ni Bảo Tích (Pramudita-garbha-maṇi-ratna-kuṭa). Pháp Hỷ (Pramudita) không cùng tận của Như Lai gọi là Tạng (Garbha). Chúng sinh biết được sẽ lìa khổ được vui, giống như viên ngọc báu Như Ý lợi ích không cùng tận, cho nên gọi là Hoan Hỷ Tạng Ma Ni Bảo Tích.
8. Nam mô Nhất Thiết Thế Gian Lạc Kiến Thượng Đại Tinh Tiến Phật (Sarva-loka-priya-darśanottara-mahā-vīrya Buddha)
Nhất Thiết Thế Gian (Pramudita-garbha-maṇi-ratna-kuṭa) mới là Từ phổ cập
Lạc Kiến (Priya-darśana) là ý mừng vui ưa thích
Thượng Đại Tinh Tiến (Uttara-mahā-vīrya) là kén chọn Hành chẳng phải là Quyền Tiểu, ấy là: Trong Nhân của Như Lai, phát Tâm tối thượng, tu Hạnh rộng lớn, tinh tiến không dời đổi, cho nên đối với Quả còn cảm được Thân mà tất cả chúng sinh đã yêu thích, hay khiến cho người thấy nghe, đều phát Bồ Đề.
Câu bên trên gọi là Giác Tha, là Công vậy. Câu bên dưới hiển Tự Giác, là Đức Công thành Đức Mãn cho nên gọi là Thượng Đại Tinh Tiến. Điều này quy ước Nhân Quả đồng tròn trịa, hiển Đức làm tên hiệu.
9. Nam mô Ma Ni Tràng Đăng Quang Phật (Maṇi-dhvaja-pradīpa Buddha:Mani Tràng Thắng Đăng)
Ma Ni Tràng Đăng Quang (Maṇi-dhvaja-pradīpa: Ma Ni Tràng Thắng Đăng) là dùng Thật Trí chứng Lý, ví như cây phướng ngọc Ma Ni. Quyền Trí soi điều thiết yếu (quyền trí giám cơ) ví như ánh đèn soi chiếu khắp, Quyền Thật song song rực rỡ, cho nên gọi là Ma Ni Tràng Đăng Quang
10. Nam mô Tuệ Cự Chiếu Phật (Jñānāloka Buddha)
Tuệ Cự Chiếu (Jñānāloka) là dùng lửa của ba Tuệ Văn, Tư, Tu chiếu phá ba Hoặc Kiến Tư, Trần Sa, Vô Minh như đèn sáng thì dứt hết ám tối, Tuệ dấy lên thì trừ bỏ Hoặc, cho nên gọi là Tuệ Cự Chiếu
Hai Đức Như Lai này biểu hiện cho Pháp Dụ.
11. Nam mô Hải Đức Quang Minh Phật (Sāgara-guṇa-prabha Buddha)
Hải Đức Quang Minh (Sāgara-guṇa-prabha). Quang Minh (Prabha) biểu thị cho Trí Đức (Jñāna-gu,na), là Trí Đức không cùng tận của Như Lai, dùng ví dụ như biển cả (Sāgara), cho nên nói là Hải Đức Quang Minh.
12. Nam mô Kim Cương Lao Cường Phổ Tán Kim Quang Phật (Vajradhṛtiabhikīrṇa-suvarṇa-prabha Buddha)
Kim Cương Lao Cường Phổ Tán Kim Quang (Vajradhṛti-abhikīrṇa-suvarṇaprabha
Kim Cương (Vajra) có tính rất bền chắc sắc bén, chẳng bị vật gây hoại mà hay tồi hoại được tất cả vật, ví dụ cho Đức Phật chẳng bị phiền não phá hoại mà hay phá hoại tất cả phiền não, cho nên gọi là Kim Cương Lao Cường (Vajradhṛti).
Thể của vàng cực sáng chẳng bị vật soi chiếu mà hay chiếu soi tất cả vật, ví dụ cho Đức Phật chẳng bị Vô Minh che mờ mà hay chiếu phá Vô Minh, cho nên gọi là Phổ Tán Kim Quang (Abhikīrṇa-suvarṇa-prabha)
13. Nam mô Đại Cường Tinh Tiến Thông Mãnh Phật (Mahā-vīryavat Buddha)
Đại Cường Tinh Tiến Dũng Mãnh (Mahā-vīryavat). Chẳng tạp thì nói là Tinh, chẳng lùi thì nói là Tiến, chẳng khiếp nhược thì nói là Dũng, chẳng sợ hãi thì nói là Mãnh. Ấy là Đức Thế Tôn từ vô lượng kiếp đến nay, đối với các Pháp tốt lành (Thiện Pháp) chẳng tạp, chẳng lùi, cho nên xưng là Đại. Đối với các đường ác thì chẳng sợ chẳng khiếp nhược, cho nên xưng là Cường. Do Đại Cường cho nên chẳng ngừng ngừng chẳng nghỉ, chặt đứt được ba Chướng, chứng Tam Bồ Đề (Saṃbodhi) cho nên gọi là Đại Cường Tinh Tiến Dũng Mãnh
14. Nam mô Đại Bi Quang Phật (Mahā-kāruṇi-prabha Buddha)
Đại Bi Quang (Mahā-kāruṇi-prabha): Ấy là dọc thì cùng tận, ngang thì tràn khắp nên nói là Đại (Mahā), tức Đức của Pháp Thân. Vận Tâm nhổ bứt khổ nên nói là Bi (Kāruṇi), tức Đức của Giải Thoát. Lặng lẽ soi chiếu chẳng hai nên nói là Quang (Prabha) tức là Đức của Bát Nhã. Ba Đức viên dung nên gọi là Đại Bi Quang.
15. Nam mô Từ Lực Vương Phật (Maitri-bala-rāja Buddha)
Từ Lực Vương (Maitri-bala-rāja). Lực (Bala) là thắng, Vương (Rāja) là qua lại (vãng) nghĩa là Đức Phật nhớ chúng sinh. Từ (Maitri) là không thể thắng (vô năng thắng) hay khiến cho Người, Trời đều cùng về đến, cho nên gọi là Từ Lực Vương.
16. Nam mô Từ Tạng Phật (Maitri-garbha Buddha)
Từ Tạng (Maitri-garbha) ấy là Nhất Cực Từ Tâm (Tâm Từ là con đường dẫn đến sự chân thật cùng cực) nhiếp quy vạn điều tốt lành, Pháp Giới đều dung chứa, sinh ra không cùng tận, cho nên nói là Từ Tạng.
17. Nam mô Chiên Đàn Quật Trang Nghiêm Thắng Phật (Candanagahābhibhū Buddha)
Chiên Đàn Quật Trang Nghiêm Thắng (Candana-gahābhibhū) là nơi mà mùi thơm màu nhiệm đã thành, nghĩa là tám vạn bốn ngàn lỗ chân lông của Như Lai đều tuôn ra mùi thơm màu nhiệm giống như Chiên Đàn (Candana) xông ướp khắp tất cả.
Dùng cái hang Pháp Diệu Bảo Trang Nghiêm này thời tối thắng không có gì sánh được, cho nên gọi là Chiên Đàn Quật Trang Nghiêm.
18. Nam mô Hiền Thiện Thủ Phật (Bhadra-subha-sīrṣa Buddha)
Hiền Thiện Thủ (Bhadra-subha-sīrṣa: cái đầu hiền thiện). Như Lai Đạo cao Đức trọng, cho nên xưng là Hiền (Bhadra). Đột nhiên ra khỏi chín cõi, cho nên xưng là
Thiện (Subha:an vui, hạnh phúc). Là Trời trong Trời, Thánh trong Thánh cho nên gọi là Hiền Thiện Thủ
19. Nam mô Thiện Ý Phật (Sumati Buddha)
Thiện Ý (Sumati) là Đức Như Lai yêu thương giúp đỡ nhớ tất cả chúng sinh giống như con đỏ, từ sinh đến sinh, tiếp dẫn không có mệt mỏi, cho nên gọi là Thiện Ý.
20. Nam mô Quảng Trang Nghiêm Vương Phật (Vaipulya-bhūṣaṇa-rāja Buddha)
Quảng Trang Nghiêm Vương (Vaipulya-bhūṣaṇa-rāja) là Sắc tướng của Đức Như Lai do vạn Đức trang nghiêm cho nên xưng là Quảng (Vaipulya). Từ vô lượng kiếp đến nay, tự tại an nhiên chẳng bị vật chuyển, cho nên xưng là Quảng Trang Nghiêm Vương.
21. Nam mô Kim Cương Hoa Phật (Suvarṇa-kusuma-prabha Buddha: Kim Hoa Quang)
Kim Hoa Quang (Suvarṇa-kusuma-prabha) là Tâm Giới (Śīla) phát Hạnh (Caryā) ví như bông hoa vàng ròng (Suvarṇa-kusuma: Kim Hoa). Lìa Dục trong sạch ví như ánh sáng vàng ròng (Suvarṇa-prabha:Kim Quang). Vàng (Suvarṇa) biểu thị cho Pháp Thân (Dharma-kāya), Hoa (Kusuma) biểu thị cho Giải Thoát (Mokṣa), Quang
(Prabha:ánh sáng) biểu thị cho Bát Nhã (Prajña). Lý của ba Đức tròn trịa cho nên gọi là Kim Hoa Quang. Điều này hiển bày ánh sáng trong sạch, vô biên tướng tốt của Đức Như Lai đều do Trì Giới mà được thành tựu trang nghiêm. Cho nên Luật (Vinaya) nói rằng: “Chư Phật chứng Bồ Đề, Độc Giác thân tâm trong sạch cùng với A La Hán đều do Luật Hạnh (thực hành Luật) mà thành”
22. Nam mô Bảo Cái Chiếu Không Tự Tại Lực Vương Phật (Ratna-chatra Prākāśeśvara-bala-rāja Buddha)
Bảo Cái Chiếu Không Tự Tại Lực Vương (Ratna-chatra Prākāśeśvara-balarāja).
Dùng niềm tin làm sự thật, bảy phần Bồ Đề làm cái lọng chiếu sáng hư không khiến cho các chúng sinh được lợi lạc lớn, tự tại vô ngại, cho nên gọi là Bảo Cái Chiếu Không Tự Tại Lực Vương
23. Nam mô Hư Không Bảo Hoa Quang Phật (Ākāśa-ratna-puṣpa-prabha Buddha)
Hư Không Bảo Hoa Quang (Ākāśa-ratna-puṣpa-prabha). Pháp Thân không có tướng giống như hư không, cho nên xưng là Bảo (Ratna: vật báu). Hoa của Tâm phát ánh lửa chiếu Chân Pháp Giới cho nên gọi là Hư Không Bảo Hoa Quang
24. Nam mô Lưu Ly Trang Nghiêm Vương Phật (Vaiḍurya-vyūha-rāja Buddha)
Lưu Ly Trang Nghiêm Vương (Vaiḍurya-vyūha-rāja). Tiến Phạn Lưu Ly (Vaiḍurya) là loại báu có màu xanh, là vật tối thắng trong bảy báu. Thân Phật trong sạch nên nói là Lưu Ly. Trong ngoài chiếu sáng nên nói là Trang Nghiêm (Vyūha).
Chặng bị quân Ma gây che chướng cho nên gọi là Lưu Ly Trang Nghiêm Vương
25. Nam mô Phổ Hiện Sắc Thân Quang Phật (Samantodaya-rūpa-kāya-prabha Buddha)
Phổ Hiện Sắc Thân Quang (Samantodaya-rūpa-kāya-prabha). Kinh Hoa Nghiêm nói rằng: “Thân Phật tràn đầy ở Pháp Giới, hiện khắp hào quang tròn trịa trước mặt tất cả quần sinh, chiếu khắp mười phương, hiện bày mọi loại việc đã thực hành, cho nên gọi là Phổ Hiện Sắc Thân Quang
26. Nam mô Bất Động Trí Quang Phật (Acala-jñāna-prabha Buddha)
Bất Động Trí Quang (Acala-jñāna-prabha). Trí Bất Động (Acala-jñāna) tức là Thể của Trí căn bản, nghĩa là Pháp Thân của Bản Phật như như chẳng động. Quang (Prabha) tức Trí sai biệt, là dụng, nghĩa là từ Thể dấy lên Dụng như mặt trăn in bóng trên ngàn con sông, cho nên gọi là Bất Động Trí Quang
27. Nam mô Giáng Phục Chư Ma Vương Phật (Sarva-māra-rāja-pramardana Buddha)
Giáng Phục Chúng Ma Vương (Sarva-māra-rāja-pramardana) là Đức Như Lai dùng sức Tuệ Vô Lậu giáng phục các Ma Ba Tuần chịu nhận sự hóa độ nơi Pháp tự tại, cho nên gọi là Giáng Phục Chúng Ma Vương
28. Nam mô Tài Quang Minh Phật (Dhana-prabhāsa Buddha)
Tài Quang Minh (Dhana-prabhāsa) là dùng Trí Tuệ vô ngại chiếu thấu các Pháp, phá các phiền não, lợi ích chúng sinh, cho nên gọi là Tài Quang Minh
29. Nam mô Trí Tuệ Thắng Phật (Jñānāgra Buddha)
Trí Tuệ Thắng (Jñānāgra). Thắng (Agra) là sức mạnh, nghĩa là dùng sức của Nhất Thiết Trí phá Kiến Tư Hoặc. Dùng sức của Đạo Chủng Trí phá Vô Minh Hoặc. Ba Hoặc đã trừ thì Giác Thể thường chiếu, công mạnh mẽ nơi ấy, cho nên gọi là Trí Tuệ Thắng
30. Nam mô Di Lặc Tiên Quang Phật (Maitreya-deva-prabha Buddha: Di Lặc Thiên Quang)
Di Lặc Tiên Quang (Maitreya-deva-prabha:Di Lặc Thiên Quang). Di Lặc (Maitreya), đây nói là Từ Thị, là họ. Tiên (Deva:Thiên) là Giác nghĩa là từ lúc phát Tâm Bồ Đề trở đi, chưa từng nhập vào Tục cho nên dùng làm họ. Tiên Quang (Devaprabha: Thiên Quang) là ánh sáng trong sạch lìa dơ bẩn. Đức Phật là Đại Từ Kim Tiên dùng ánh sáng của Trí trong sạch không có dơ bẩn chiếu khắp các cõi (chư hữu) lìa khổ được vui, cho nên gọi là Di Lặc Tiên Quang
31. Nam mô Thế Tịnh Quang Phật (Loka-śuddha-pratibhāsa Buddha)
Thế Tịnh Quang (Loka-śuddha-pratibhāsa) là Đức Như Lai hiện ra ở đời, dùng các Đạo Pháp giáo hóa chúng sinh, thân tâm trong sạch, lìa hẳn sự đen tối cho nên gọi là Thế Tịnh Quang
32. Nam mô Thiện Tịch Nguyệt Âm Diệu Tôn Trí Vương Phật (Suyogacandra-ghoṣa-jñānāgra-rāja Buddha)
Thiện Tịch Nguyệt Âm Diệu Tôn Trí Vương (Suyoga-candra-ghoṣa-jñānāgrarāja) là Trí chiếu soi như mặt trăng, hiểu biết Nhã Âm màu nhiệm.
Kinh nói rằng: “Mặt trăng trong mát của Bồ Tát thường dạo Tất Cánh Không (cái Không rốt ráo) là Thiện Tịch Nguyệt Âm (Suyoga-candra-ghoṣa:âm thanh của mặt trăng khéo vắng lặng)”
Lại nói rằng: “Tâm của chúng sinh như nước trong, ảnh Bồ Đề hiện trong đó là Diệu Tôn Trí Vương (jñānāgra-rāja) vậy”
Câu bên trên là ví dụ, câu bên dưới là Pháp. Nghĩa là dùng ánh sáng Trí Quyền Thật hiểu biết Pháp tự tại, như hình ảnh của mặt trăng, tiếng dội lại của âm thanh, tất cả song vong song chiếu (cả hai cùng quên, cả hai cùng chiếu) cho nên gọi là Thiện Tịch Nguyệt Âm Diệu Tôn Trí Vương
33. Nam mô Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật (Nāgagotrodara-rāja Buddha)
Long Chủng Thượng Tôn Vương (Nāgagotrodara-rāja). Nói Long Chủng (loài Rồng) là hàng rất ư tôn thượng của Thế Gian, nghe Phật Âm giao cảm mà phát Tâm tin, quy đầu nơi Phật mà được tự tại, cho nên gọi là Long Chủng Thượng Tôn Vương
34. Nam mô Nhật Nguyệt Quang Phật (Candra-sūrya-prabha Buddha)
Nhật Nguyệt Quang (Candra-sūrya-prabha) là dùng Trí căn bản chứng Lý, dùng Trí Hậu Đắc chặt đức Hoặc, Tình quên Lý hiển, đất Tâm bừng sáng, ánh sáng đồng với mặt trời, mặt trăng cho nên gọi là Nhật Nguyệt Quang
35. Nam mô Nhật Nguyệt Châu Quang Phật (Candra-sūrya-maṇi-prabha Buddha)
Nhật Nguyệt Châu Quang (Candra-sūrya-maṇi-prabha) là Đức Như Lai dùng ánh sáng của ba Giác Trí chiếu phá Hoặc Nghiệp vô minh, chẳng hiểu biết của tất cả chúng sinh cho nên gọi là Nhật Nguyệt Châu Quang
36. Nam mô Tuệ Tràng Thắng Vương Phật (Jñāna-dhvajābhibhū-rāja Buddha)
Tuệ Tràng Thắng Vương (Jñāna-dhvajābhibhū-rāja) là Đức Như Lai dựng phướng phan Đại Trí Tuệ giáng phục quân Ma, công lực thù thắng cho nên gọi là Tuệ Tràng Thắng Vương
37. Nam mô Sư Tử Hống Tự Tại Lực Vương Phật (Siṃha-nādeśvara-bala-rāja Buddha)
Sư Tử Hống Tự Tại Lực Vương (Siṃha-nādeśvara-bala-rāja). Sư Tử (Siṃha) là vua trong loài thú, phát ra tiếng gầm rống (Nāda) khiến trăm loài thù ẩn nấp. Pháp Âm của Đức Như Lai rung động đồng với sư tử. Trí Tuệ, Uy Đức, Lực Thắng như vua cho nên nói là Sư Tử Hống Tự Tại Lực Vương
Người xưa nói: “Đức Phật phát ra tiếng rống của sư tử thì Ma Ngoại chắp tay, bốn Chúng nghe thấy liền được Đại Vô Úy vậy”
38. Nam mô Diệu Âm Thắng Phật (Mañjusvarābhibhū Buddha)
Diệu Âm Thắng (Mañjusvarābhibhū) là Đức Như Lai nói Pháp chẳng động âm thanh, hình sắc mà vòng khắp mười phương, cho nên nói là Diệu Âm (Mañjusvara).
Chúng sinh nghe thấy tùy theo loại được hiểu biết, cuối cùng thành Chủng Trí cho nên gọi là Diệu Âm Thắng
39. Nam mô Thường Quang Tràng Phật (Nitya-sṛṣṭa-prabha-dhvaja Buddha)
Thường Quang Tràng (Nitya-sṛṣṭa-prabha-dhvaja) là Đức Như Lai thường dựng cây phướng Đại Quang Minh thảy đều tiêu diệt Vô Minh đen tối, cho nên gọi là Thường Quang Tràng.
40. Nam mô Quán Thế Đăng Phật (Avalokite-pradīpa Buddha)
Quán Thế Đăng (Avalokite-pradīpa) là Đức Như Lai quán chúng sinh của Thế Giới ấy từ mờ tối đi vào mờ tối, chẳng chịu suy nghĩ soi chiếu ngược lại, thế nên dùng cây đèn Đại Pháp dẫn về nơi chốn báu, cho nên gọi là Quán Thế Đăng
41. Nam mô Tuệ Uy Đăng Vương Phật (Jñāna-bhīṣma-pradīpa-rāja Buddha)
Tuệ Uy Đăng Vương (Jñāna-bhīṣma-pradīpa Rāja). Dùng Trí căn bản dấy lên Trí Hậu Đắc hiện Đại Pháp Uy cho nên gọi là Tuệ Uy (Jñāna-bhīṣma) giống như vua đèn (đăng vương) truyền ánh sáng không cùng tận, chúng sinh nương theo ánh sáng mà được tự tại, cho nên gọi là Tuệ Uy Đăng Vương
42. Nam mô Pháp Thắng Vương Phật (Dharma-vijaya-rāja Buddha)
Pháp Thắng Vương (Dharma-vijaya-rāja). Kinh nói rằng: “Ta làm Pháp Vương ở Pháp tự tại” cho nên gọi là Pháp Thắng Vương
43. Nam mô Tu Di Quang Phật (Sumeru-prabha Buddha)
Tu Di Quang (Sumeru-prabha). Tu Di (Sumeru) đây là núi Diệu Cao, tên gọi của núi vua. Nói là bốn báu tạo thành cho nên xưng là vi diệu, đột nhiên rời khỏi đám núi cho nên xưng là cao, đã cao mà lại diệu nên xưng là Sơn Vương (núi vua) chiếu sáng bốn phương nên gọi là Quang (Prabha) dùng ví dụ cho bốn Trí của Đức Như Lai chuyển thành quả Phật diệu giác, cao hơn Người, Trời…ánh sáng chiếu khắp cho nên gọi là Tu Di Quang
44. Nam mô Tu Mạn Na Hoa Quang Phật (Sumana-prabha Buddha)
Tu Mạn Na Hoa Quang (Sumana-prabha). Tu Ma Na (Sumana) đây là tên gọi của hoa Xứng Ý màu trắng vàng có mùi thơm lan tỏa xa, dùng ví dụ cho Giới Thiện Hương Quang của Đức Như Lai, không có gì chẳng vừa ý cho nên gọi là Tu Ma Na Hoa Quang
45. Nam mô Ưu Đàm Bát La Hoa Thù Thắng Vương Phật (Udumbara Jayottama-rāja Buddha)
Ưu Đàm Bát La Hoa Thù Thắng Vương (Udumbara- jayottama-rāja). Ưu Đàm Bát La (Udumbara) đây gọi là Linh Thụy (điềm linh thiêng), lại là tên gọi của hoa Thụy Ứng, ba ngàn năm hiện ra một lần, khi hiện ra thì có Kim Luân Vương ra đời, cho nên gọi là thù thắng, dùng ví dụ cho sự hiếm có dịp gặp được Đức Như Lai, cho nên gọi là Ưu Đàm Bát La Hoa Thù Thắng Vương
Kinh nói rằng: “Chư Phật ra đời, khoảng cách rất xa, thật là khó gặp ví như hoa Ưu Đàm thường chỉ hiện một lần vậy”
46. Nam mô Đại Tuệ Lực Vương Phật (Mahā-mati-bala-rāja Buddha)
Đại Tuệ Lực Vương (Mahā-mati-bala-rāja) hiển sức của Phi Quyền tiểu Trí Tuệ, nghĩa là Đức Như Lai Pháp Vương dùng sức của Đại Trí Tuệ dẫn đường cho chúng sinh đến thẳng bờ bên kia của Niết Bàn, cho nên gọi là Đại Tuệ Lực Vương.
47. Nam mô A Súc Tỳ Hoan Hỷ Quang Phật (Akṣobhya-pramudita-prabha Buddha)
A Súc Tỳ Hoan Hỷ Quang (Akṣobhya-pramudita-prabha). A Súc Tỳ (Akṣobhya) đây nói là Bất Động, tên gọi của Đức Phật như như chẳng động, cõi nước hiệu là Hoan Hỷ (Pramudita) người Trời vui vẻ yêu mến. Quang (Prabha) là hai Báo Y Báo, Chính Báo đều phóng ánh sáng, chẳng lay động thường vắng lặng chiếu khắp mười phương, tất cả Người, Trời không có ai chẳng vui vẻ, cho nên gọi là A Súc Tỳ Hoan Hỷ Quang.
48. Nam mô Vô Lượng Âm Thanh Vương Phật (Amitasvara-rāja Buddha)
Vô Lượng Âm Thanh Vương (Amitasvara-rāja) là Đức Như Lai dùng âm thanh không có cùng tận, nói Diệu Pháp không có cùng tận, tự tại vô ngại cho nên gọi là Vô Lượng Âm Thanh
49. Nam mô Tài Quang Phật (Dhanāloka Buddha)
Tài Quang (Dhanāloka). Tài (Dhana) là biện tài. Quang (Āloka) là ánh sáng Trí.
Nghĩa là Đức Như Lai đầy đủ vô lượng biện tài, ánh sáng của Trí Tuệ lợi khắp cho tất cả, cho nên gọi là Tài Quang
50. Nam mô Kim Hải Quang Phật (Suvarṇa-sāgara-prabha Buddha)
Kim Hải Quang (Suvarṇa-sāgara-prabha) là thân Phật lớn như biển cả, ánh sáng vàng ròng tỏa màu đỏ tía chiếu sáng vô cùng, dùng ví dụ cho Hải Ấn Tam Muội, biểu thị cho Pháp thù thắng. Cho nên Lăng Nghiêm nói rằng: “Như Ta ấn ngón tay thì Hải Ấn phát ra ánh sáng” cho nên gọi là Kim Hải Quang
51. Nam mô Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Phật (Sāgara-vāridharabuddhi-vikṛditābhijñā-rāja Buddha:Hải Vân Giác Tuệ Thần Biến Vương)
Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương (Sāgara-vāridhara-buddhi-vikṛditābhijñārāja:
Hải Vân Giác Tuệ Thần Biến Vương) là Tuệ chân thật như ngọn núi (?mây), Tuệ phương tiện như biển cả nên gọi là Sơn Hải Tuệ (Sāgara-vāridhara-buddhi). Tự Tại Thông Vương (Vikṛditābhijñā-rāja:Thần Biến Vương). Tục Đế nói là Tự Tại, Chân Đế nói là Thông (thần thông, thần biến), Trung Đạo Đế nói là Vương. Dùng ba loại Đại Trí Tuệ này hội nhập Lý của ba Đế cho nên gọi là Tự Tại Thông Vương
52. Nam mô Đại Thông Quang Phật (Mahābhijña-prabha Buddha)
Đại Thông Quang (Mahābhijña-prabha). Thể của Giác nói là Đại (Mahā:to lớn) là Đức của Pháp Thân. Dụng của Giác nói là Thông (Abhijña) là Đức của Giải Thoát.
Tướng của Giác nói là Quang (Prabha:ánh sáng) là Đức của Bát Nhã. Ba Đức viên dung chẳng thể nghĩ bàn cho nên gọi là Đại Thông Quang
53. Nam mô Nhất Thiết Pháp Tràng Mãn Vương Phật (Sarva dharma-ketupūrṇa-rāja Buddha)
Nhất Thiết Pháp Tràng Mãn Vương (Sarva dharma-ketu-pūrṇa-rāja) là năm Giáo, ba Thừa gọi là sự dựng bày (tiêu thị) của tất cả Pháp (Sarva dharma). Người, Trời nói là Tràng (Ketu: cây phướng). Vòng khắp Pháp Giới gọi là Mãn (Pūrṇa:tràn đầy). Pháp Pháp tự tại nói là Vương (rāja: vua). Dùng tất cả Pháp: dọc thì cùng tận, ngang thì viên dung không có ngăn ngại…cho nên gọi là Nhất Thiết Pháp Tràng Mãn Vương.
54. Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật (Śākya-muṇi Buddha)
Thích Ca Mâu Ni (Śākya-muṇi). Thích Ca (Śākya) là Năng Nhân, là Tính (họ), từ Từ Bi lợi vật đã lập nên tên gọi. Mâu Ni (Muṇi) là Tịch Mặc, là Chữ. Y theo Trí Tuệ biết rõ Lý nên có hiệu là Năng Nhân cho nên chẳng trụ ở Niết Bàn. Do Tịch Mặc cho nên chẳng trụ ở sinh tử. Bi Trí kèm vận, Chân Tục song dung cho nên gọi là Thích Ca Mâu Ni. Đức Phật này theo Tính (họ) với Chữ mà hợp xưng
55. Nam mô Kim Cương Bất Hoại Phật (Vajra-pramardi Buddha)
Kim Cương Bất Hoại (Vajra-pramardi:Kim Cương năng đoạn)
Tịnh Danh nói là: “Thân của Như Lai, Thể của Kim Cương, vật chẳng thể hoại, các ác đã bị chặt đứt, mọi Thiện tập hội khắp thời bệnh gì, phiền não gì ? !..cho nên gọi là Kim Cương Bất Hoại
56. Nam mô Bảo Quang Phật (Ratnārcis Buddha)
Bảo Quang (Ratnārcis). Lăng Nghiêm nói rằng: “Từ trong Nhục Kế phun ra ánh sáng trăm báu, trong ánh sáng hiện ra Đức Phật tuyên nói Thần Chú”, cho nên gọi là Bảo Quang
57. Nam mô Long Tôn Vương Phật (Nāgeśvara-rāja Buddha)
Long Tôn Vương (Nāgeśvara-rāja: Long Tự Tại Vương) là bậc tối tôn trong loài Rồng, cho nên xưng là vua (vương), dùng ví dụ Như Lai Pháp Vương là Tôn trong chúng Thánh, nên gọi là Long Tôn Vương
58. Nam mô Tinh Tiến Quân Phật (Vīrasena Buddha)
Tinh Tiến Quân (Vīrasena) là bậc Thế Quân dũng mãnh tinh tiến, hay đẩy lui Oán Địch. Đức Như Lai là vị Tướng của Đại Pháp, giáng phục quân Ma, cho nên gọi là Tinh Tiến Quân
59. Nam mô Tinh Tiến Hỷ Phật (Vīra-nandin Buddha)
Tinh Tiến Hỷ (Vīra-nandin) là tinh tiến tu tập báu của Đạo. Do tinh tiến cho nên chuyên Tâm hướng về Đạo, được sự vui thích của Pháp, viên thành Phật Quả, nên gọi là Tinh Tiến Hỷ
60. Nam mô Bảo Hỏa Phật (Ratnāgni Buddha)
Bảo Hỏa (Ratnāgni) hiển lửa chẳng phải thuộc Thế Gian, có bốn nghĩa:
– Nghĩa thiêu đốt dùng ví dụ cho sự thiêu đốt phiền não
– Nghĩa chiếu soi rốt ráo dùng ví dụ cho ánh sáng của Đức Phật chiếu soi khắp cả
– Nghĩa nướng ướp dùng ví dụ cho sự xông ướp bên trong Chân Như
– Nghĩa thành thục dùng ví dụ cho thành thục căn lành
Đủ 4 nghĩa này cho nên gọi là Bảo Hỏa. Như Lăng Nghiêm nói rằng: “Trong Như Lai Tạng, lửa chân thật của Tính Không, trong sạch vốn đang như thế. Vòng khắp Pháp Giới, tùy theo Tâm của chúng sinh, ứng theo chỗ biết lượng là vậy”. Đây ví dụ cho thân Như Như Phật
61. Nam mô Bảo Nguyệt Quang Phật (Ratna-candra-prabha Buddha)
Bảo Nguyệt Quang (Ratna-candra-prabha). Bảo (Ratna) là Thể dùng biểu thị cho Pháp Thân. Nguyệt (Candra) là Tướng dùng biểu thị cho Giải Thoát. Quang (Prabha) là Dụng, dùng biểu thị cho Bát Nhã. Hiển Thể Tướng Dụng cho nên gọi là Bảo Nguyệt Quang. Điều này ví dụ cho thân Công Đức Phật của Như Lai.
62. Nam mô Hiện Vô Ngu Phật (Amogha-darśi Buddha)
Hiện Vô Ngu (Amogha-darśi:Bất Không Kiến) là ánh sáng Trí một lần phát ra thì Si Chướng bị tiêu tan hoàn toàn, cho nên gọi là Hiện Vô Ngu. Như Kinh Viên Giác nói: “Trí Tuệ, ngu si thông là Bát Nhã”. Đây ví dụ cho thân Trí Tuệ Phật của Như Lai
63. Nam mô Bảo Nguyệt Phật (Ratna-candra Buddha)
Bảo Nguyệt (Ratna-candra). Bảo (Ratna) nghĩa là cứu giúp khổ đau. Nguyệt (Candra) nghĩa là trong mát. Ấy là dùng báu trong mát cứu giúp khắp chúng sinh, trừ diệt khổ nóng bức, cho nên gọi là Bảo Nguyệt. Đây ví dụ cho thân Ứng Hóa Phật của Như Lai.
64. Nam mô Vô Cấu Phật (Nirmala Buddha)
Vô Cấu (Amala, hay Nirmala) là Tự Tính của Như Lai trong sạch, vốn không có nhiễm dơ cho nên gọi là Vô Cấu.
Như Pháp Giới Luận nói: “Tự Tính trong sạch không có nhiễm dính, cho nên gọi là Như Lai”
65. Nam mô Ly Cấu Phật (Vimala Buddha)
Ly Cấu (Vimala) là Giác Thể của Như Lai từ vô lượng kiếp đến nay, lìa hẳng bụi dơ phiền não, cho nên gọi là Ly Cấu.
Như Pháp Giới Luận nói: “Cõi chúng sinh chẳng trong sạch, Bồ Tát trong sạch trong sự nhiễm, bậc tối cực thanh tịnh được nói là Như Lai. Trước kia là Tại Triền Như Lai Tạng (Tâm Tự Tính thanh tịnh của Như Lai Tạng ẩn tàng trong phiền não trói buộc) là Bản Giác Tính Tịnh. Sau này là Xuất Triền Như Lai Tạng (Tâm Tự Tính thanh tịnh của Như Lai Tạng vuợt khỏi sự trói buộc, hiển hiện Pháp Thân) là Viên Giác Cứu Tịnh
66. Nam mô Dũng Thí Phật (Sūradatta Buddha)
Dũng Thí (Sūradatta) là dùng ba loại Tài Thí, Pháp Thí, Vô Úy Thí ban cho chúng sinh không có giải thoát, cho nên gọi là Dũng Thí
67. Nam mô Thanh Tịnh Phật (Brahma Buddha)
Thanh Tịnh (Brahma) là Tự Tính của Đức Nhu Lai vốn thanh tịnh, lìa các bụi nhiễm, trong ngoài trong suốt, không có tối tăm chẳng có đuốc soi, cho nên gọi là Thanh Tịnh
68. Nam mô Thanh Tịnh Thí Phật (Brahmadatta Buddha)
Thanh Tịnh Thí (Brahmadatta) là dùng Chính trợ giúp Đạo Pháp, giáo hóa chúng sinh, Thể của ba Luân trống rỗng, chẳng dính Năng Sở, cho nên gọi là Thanh Tịnh Thí
69. Nam mô Sa Lưu Na Phật (Varuṇa Buddha)
Sa Lưu Na (Varuṇa) Đây nói là nước Cam Lộ nghĩa là Cam Lộ có công năng cải tử hoàn sinh, Phật Pháp có Đức chuyển Phàm thành Thánh. Có công năng này, cho nên gọi là Sa Lưu Na
70. Nam mô Thủy Thiên Phật (Varuṇa-deva Buddha)
Thủy Thiên (Varuṇa-deva) là dùng nước Thiên Lý của Tính nuôi dưỡng mầm Tâm, tu tập Quán Hạnh thành quả Chính Giác, cho nên gọi là Thủy Thiên.
71. Nam mô Kiên Đức Phật (Bhadra-śrī Buddha)
Kiên Đức (Bhadra-śrī:Hiền Đức) là dùng Pháp của Giới không chảy rỉ (vô lậu giới) tu nhiếp Tâm ấy, như ôm giữ cái phao nổi (vật dụng giúp cho người khỏi bị chết chìm), giữ gìn bền chắc chẳng bị phá hoại. Dùng Đức làm rạng danh, cho nên gọi là Kiên Đức
72. Nam mô Chiên Đàn Công Đức Phật (Candana-śrī Buddha)
Chiên Đàn Công Đức (Candana-śrī) là có ích nơi việc nên nói là Công. Cứu độ tất cả nên nói là Đức. Nghĩa là Đức Như Lai nói Pháp chẳng thể nghĩ bàn. Chúng sinh nghe thấy như được Chiên Đàn (Candana), bệnh liền trừ khỏi. Đủ Lực Dụng này cho nên nói là Chiên Đàn Công Đức
73. Nam mô Vô Lượng Cúc Quang Phật (Ananta-ujjvalana Buddha)
Vô Lượng Cúc Quang (Ananta-ujjvalana). Cúc là tụm lại. Nghĩa là Diệu Tướng của Đức Như Lai tụm lại phát ra ánh sáng trùng trùng không tận, cho nên gọi là vô Lượng Cúc Quang
74. Nam mô Quang Đức Phật (Prabhasa-śrī Buddha)
Quang Đức (Prabhasa-śrī) là Từ Quang soi chiếu khắp, lợi ích hữu tình, Ân Đức không tận cho nên gọi là Quang Đức
75. Nam mô Vô Ưu Đức Phật (Aśoka-śrī Buddha)
Vô Ưu Đức (Aśoka-śrī) là Đức Như Lai chứng Đại Niết Bàn (Mahā-nirvāṇa), lìa hẳn các Lậu (Āsrava: tên khác của phiền não) không có ưu não. Đủ Công Đức này cho nên gọi là Vô Ưu Đức
76. Nam mô Na La Diên Phật (Nārāyaṇa Buddha)
Na La Diên (Nārāyaṇa) Đây nói là bền chắc, nghĩa là thân Phật bền chắc giống như Kim Cương không gì có thể làm cho tan hoại, cho nên gọi là Na La Diên
77. Nam mô Công Đức Hoa Phật (Kusuma-śrī Buddha)
Công Đức Hoa (Kusuma-śrī) là Đức Như Lai công thành Diệu Trí, ngộ thấu Chân Thường, Hoa của nhân vạn Hạnh trang nghiêm quả Đức cho nên gọi là Công Đức Hoa
78. Nam mô Liên Hoa Quang Du Hý Thần Thông Phật (Padma-jyotirvikṛditābhijñā Buddha)
Liên Hoa Quang Du Hý Thần Thông (Padma-jyotir-vikṛditābhijñā). Liên Hoa Quang (Padma-jyotir) biểu thị cho Phật Trí là ánh sáng tuy chiếu xa nhưng vốn chẳng dời đổi, dùng ví dụ cho Đức Như Lai du hóa mười phương, chẳng lìa Hoa Quang Tam Muội đều dùng Thần Thông biến hiện, cho nên gọi là Liên Hoa Quang Du Hý Thần Thông
79. Nam mô Tài Công Đức Phật (Dhana-śrī Buddha)
Tài Công Đức (Padma-jyotir-vikṛditābhijñā) là Đức Như Lai dùng Công Đức Pháp Tài cứu giúp khắp chúng sinh chứng Đại Bồ Đề cho nên gọi là Tài Công Đức
80. Nam mô Đức Niệm Phật (Smṛti-śrī Buddha)
Đức Niệm (Smṛti-śrī). Đức (Śrī) là gốc của thành Phật, Tâm của niệm lợi sinh.
Dùng Đức cho nên bên trên hoằng dương Phật Đạo, bên dưới hóa độ chúng sinh. Hai Lợi đồng tròn cho nên gọi là Đức Niệm
81. Nam mô Thiện Danh Xưng Công Đức Phật (Suparikirtita-nāmadheya-śrī Buddha)
Thiện Danh Xưng Công Đức (Suparikirtita-nāmadheya-śrī). Thiện là khen ngợi sự tốt đẹp. Nghĩa là Đức Như Lai đã tu Công Đức lợi sinh, khen ngợi chẳng thể cùng tận, thấy Tướng nghe Tên đều thấm ngấm lợi lạc, cho nên gọi là Thiện Danh Xưng Công Đức
82. Nam mô Hồng Diệm Đế Tràng Vương Phật (Indra-ketu-dhavaja-rāja Buddha)
Hồng Diệm Đế Tràng Vương (Indra-ketu-dhavaja-rāja). Hồng Diệm tức là ánh sáng của cây phướng (ketu) ngọc màu đỏ trong cung Thiên Đế (Indra) cho nên nói là Hồng Diệm. Cây phướng này chỉ được sở hữu trong cung Thiên Đế, cho nên xưng là Vương (rāja) dùng ví dụ cho lửa ánh sáng vàng tía của thân tướng Như Lai. Đại Thiên quốc thổ chỉ có Đức Phật là tối tôn cho nên gọi là Hồng Diệm Đề Tràng Vương
83. Nam mô Thiện Du Bộ Công Đức Phật (Vikrānta-gamin-śrī Buddha:Du Bộ Công Đức)
Thiện Du Bộ Công Đức (Vikrānta-gamin-śrī) là Đức Như Lai bước đi giống như con voi chúa, chẳng phải như loại người khác nhẹ nâng vọng động. Phàm nơi thi hành đều hay cảm phát tất cả chúng sinh phát Tâm Bồ Đề, tăng trưởng Công Đức, cho nên gọi là Thiện Du Bộ
Lại đủ ba loại Ý Sinh Thân. Thiện Du Bộ là Chủng Loại Ý Thân, Công là Tam Muội Ý Thân, Đức là Giác Pháp Ý Thân …rõ ràng như Kinh Lăng Già nói
84. Nam mô Đấu Chiến Thắng Phật (Vijitasaṃgrama Buddha)
Đấu Chiến Thắng (Vijitasaṃgrama) là Đức Phật cùng mũi tên Trí, cây cung Thiền, cây kiếm Quang Minh Tuệ cùng đấu với Uẩn Ma, Phiền Não Ma. Sức chiến đấu của các Thiên Ma, Ngoại Đạo chẳng bằng nên thảy đều chịu nhận sự hóa độ, cho nên gọi là Đấu Chiến Thắng
85. Nam mô Thiện Du Bộ Phật (Suvikrānta Buddha)
Thiện Du Bộ (Suvikrānta) là Đức Như Lai dùng sức Thần Túc vòng khắp mười phương, du hành tự tại, cảm hóa các cõi cho nên gọi là Thiện Du Bộ.
86. Nam mô Chu Táp Trang Nghiêm Công Đức Phật (Samantāvabhāsa-vyūhaśrī Buddha)
Chu Táp Trang Nghiêm Công Đức (Samantāvabhāsa-vyūha-śrī) là mười phương ba mé sinh Phật y theo Chính đều dùng Công Đức, Pháp Hành tịnh diệu trang nghiêm chẳng phải là loại Thế Gian, vật Hữu Vi so sánh được, cho nên gọi là Chu Táp Trang Nghiêm Công Đức
87. Nam mô Bảo Hoa Du Bộ Phật (Ratna-padma-vikramin Buddha)
Bảo Hoa Du Bộ (Ratna-padma-vikramin) có hai ý
Một là chất đầy mọi hoa màu nhiệm cúng dường mười vạn ức Phật ở phương khác, tức xong một bữa ăn liền quay trở về nước của mình, ăn cơm đi Kinh Hành
Hai là dưới bàn chân của Đức Như Lai có tướng bánh xe ngàn căm, phàm nơi du hành có hoa báu nâng đỡ bàn chân.
Cho nên gọi là Bảo Hoa Du Bộ
88. Nam mô Bảo Liên Hoa Thiện Trụ Sa La Thọ Vương Phật (Ratna padmasupratiṣṭhita-śālendra-rāja Buddha)
Bảo Liên Hoa Thiện Trụ Sa La Thọ Vương (Ratna-padma-supratiṣṭhitaśālendra-rāja). Bảo Liên (Ratna-padma) là hoa thanh tịnh không dơ bẩn. Thiện Trụ (Suoratiṣṭhita) đây nói là tối thắng, cũng nói là bền chắc. Đã thắng mà còn bền chắc cho nên gọi là Thọ Vương. Nghĩa là Đức Như Lai ở dưới cây này, an trụ thân tâm, khởi Trí chặt đứt Hoặc (phiền não), Tâm như hoa sen báu lìa hẳn các dơ bẩn, giống như cây vua tối thắng bền chắc, cho nên gọi là Bảo Liên Hoa Thiện Trụ Sa La Thọ Vương
89. Nam mô Pháp Giới Tạng Thân A Di Đà Phật (Namo Dharma-dhātugarbha-kāya- Amitābha-buddha)
Pháp Giới Tạng Thân (Dharma-dhātu-garbha-kāya) có hai ý
– Một là Nhân là tên gọi của Tỳ Kheo Pháp Tạng (Dharmakāra-bhikṣu), Quả là thành Báo của Pháp Giới Tạng Thân
– Hai là như Quán Kinh nói: “Chư Phật Như Lai là Pháp Giới Thân (Dharmakāya) nhập vào trong Tâm Tưởng của tất cả chúng sinh. Nay Di Đà (Amitābha) cũng là Pháp Giới Thân ở trong khắp cõi nước nhiều như hạt bụi nhỏ thuộc hư không Pháp Giới của mười phương”
A Di Đà. Phiên dịch này có hai ý: Một là Vô Lượng Thọ (Amitāyus) là Đức Phật ấy có thọ mệnh vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp. Hai là Vô Lượng Quang (Amitābha) là Đức Phật có ánh sáng chiếu soi cõi nước mười phương không có chướng ngại. Song Lý Thật, Thân Tướng, Công Đức Y Báo, Chính Báo đều có vô lượng cho nên xưng là A Di Đà. Đây cũng đơn điệu thuận theo Pháp nói Tưởng như Kinh của các Tịnh Thổ.
Kiểm tra tranh ưng ý mới thanh toán.